Đóng 15 Năm Được Hưởng Lương Hưu

Đóng 15 Năm Được Hưởng Lương Hưu

Chiều 02/11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 6, Quốc hội nghe Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung trình bày Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi).

Đóng BHXH bao nhiêu năm thì được hưởng lương hưu?

Thời gian đóng Bảo hiểm xã hội (BHXH) để được hưởng lương hưu có sự khác biệt giữa đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và tham gia BHXH tự nguyện. Theo đó, việc nắm rõ quy định về đối tượng đóng BHXH sẽ giúp người lao động hiểu rõ hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình để thực hiện đóng BHXH theo đúng quy định. Đối tượng tham gia BHXH theo Điều 2, Luật BHXH năm 2014 bao gồm:

(1) Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm:

- Người lao động ký hợp đồng lao động có xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn, hợp đồng theo mùa vụ có thời hạn từ 3 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi.

- Người ký hợp đồng lao động có thời hạn từ 1-3 tháng.

- Cán bộ, công chức, viên chức.

- Công nhân quốc phòng, công an…

- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân, hạ sĩ quan, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân.

- Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn, học viên quân đội, công an…

- Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

- Người làm chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã.

- Người hoạt động không chuyên trách tại các đơn vị xã, phường, thị trấn…

- Người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

(2) Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, cá nhân có thuê mướn và sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.

Như vậy, đối với nhóm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, theo quy định tại Điều 54 Luật BHXH năm 2014, để được hưởng lương hưu, người lao động cần đáp ứng số năm đóng BHXH ít nhất 20 năm kể cả nam và nữ, hoặc có từ đủ 15 năm đến 20 năm đóng BHXH đối với lao động nữ là cán bộ, công chức cấp xã hoặc là người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.

Những đối tượng có thể tham gia bảo hiểm xã hội tại Việt Nam

(3) Người tham gia gia BHXH tự nguyện: Công dân Việt Nam từ 15 tuổi trở lên, không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

Theo quy định tại Điều 73, Luật BHXH năm 2014, sửa đổi bởi điều 219, Bộ luật lao động 2019, người lao động tham gia BHXH tự nguyện hưởng lương hưu khi đáp ứng các điều kiện sau:

Người lao động đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định.

Người lao động đóng đủ 20 năm BHXH trở lên.

Như vậy, quy hiện hành thì để đủ điều kiện hưởng lương hưu, công dân phải có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ tuổi nghỉ hưu.

Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A năm nay 49 tuổi. Ông A chưa có bất kỳ khoảng thời gian tham gia BHXH nào. Hiện ông A muốn đóng BHXH. Vậy đóng bao lâu sẽ được hưởng lương hưu?

Trả lời: Ông Nguyễn Văn A năm nay 49 tuổi, tuổi về hưu là 62 tuổi. Do ông A chưa từng có bất kỳ khoảng thời gian tham gia BHXH nào, nên ông sẽ phải tham gia đủ 20 năm BHXH mới được nhận lương hưu.

Theo quy định trên, nếu ông A tham gia BHXH từ năm 49 tuổi, đến năm 62 tuổi là 13 năm theo các phương thức đóng 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng hoặc 5 năm, sau đó có thể đóng một lần cho những năm còn thiếu (cụ thể là 7 năm) thì sẽ được làm thủ tục hưởng lương hưu.

Mức lương hưu hàng tháng của người lao động

Bổ sung đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội

Theo quy định của luật mới, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ đủ 1 tháng trở lên, kể cả trường hợp người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên.

So với Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi đã bổ sung đối tượng tham gia là chủ hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tham gia theo quy định của Chính phủ.

Bên cạnh đó là người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc, thành viên ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh quản lý khác được bầu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã không hưởng tiền lương.

Trong luật cũng nêu ra mức tham chiếu là mức tiền dùng để tính mức đóng, mức hưởng một số chế độ bảo hiểm xã hội trong luật này do Chính phủ quyết định.

Mức tham chiếu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế, phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và quỹ bảo hiểm xã hội. Chính phủ quy định chi tiết điều này.

Trước đó Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho hay mức tham chiếu được dùng khi thực hiện cải cách chính sách tiền lương trong thời gian tới, bỏ mức lương cơ sở.

Theo quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi, lao động nam đủ tuổi nghỉ hưu, đóng bảo hiểm xã hội 15 năm thì mức hưởng bằng 40% bình quân tiền lương tháng đóng. Từ 16 đến 20 năm, mỗi năm tính thêm 1%. Từ năm thứ 20 trở đi, tỷ lệ hưởng lương hưu là 45%, cứ đóng mỗi năm tính thêm 2% cho đến khi hưởng tối đa 75%.

Lao động nữ đủ tuổi nghỉ hưu, đóng bảo hiểm xã hội 15 năm thì mức hưởng bằng 45% bình quân tiền lương làm căn cứ đóng. Mỗi năm sau đó hưởng thêm 2% cho đến khi đạt tỷ lệ tối đa 75%.

Như vậy, cùng đóng bảo hiểm xã hội 15 năm, nữ hưởng lương hưu 45%, nam chỉ 40%.

Dẫn ý kiến của cán bộ công đoàn, người lao động tại các buổi đối thoại trước đó kiến nghị, phóng viên đặt câu: Bộ Luật lao động đã điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu của nam và nữ tiệm cận nhau, nam 62 và nữ 60. Vậy tại sao khi sửa luật BHXH không thay đổi cách tính để giảm tỉ lệ chênh lệch lương hưu của nam và nữ tương ứng với độ tuổi nghỉ hưu?

Lý giải sự không điều chỉnh theo tuổi lao động, ông Nguyễn Duy Cường, Phó Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm xã hội (Bộ LĐTBXH) Nguyễn Duy Cường cho biết: Việc không điểu chỉnh này do tính đến việc cân đối Quỹ BHXH. Bên cạnh đó, Luật mới kế thừa từ Luật Bảo hiểm xã hội 2014, không thay đổi công thức tính lương hưu.

Ban soạn thảo chỉ bổ sung cách tính tỉ lệ lương hưu với lao động nam đóng từ 15 năm đến dưới 20 năm, vì Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành không có quy định với nhóm này. Đồng thời để đảm bảo việc sửa Luật BHXH đóng 15 năm được lĩnh lương hưu.

Tỷ lệ hưởng lương hưu bình quân với mỗi năm tham gia bảo hiểm xã hội của các nước trên thế giới chỉ khoảng 1,7%; Trung Quốc, Hàn Quốc khoảng 1%. Riêng Việt Nam, tỷ lệ này theo luật hiện hành là 2,14% với nam và 2,5% với nữ.

Căn cứ theo tỷ lệ này, mức hưởng của lao động nam ban đầu được đề xuất 2,25% mỗi năm, đóng đủ 15 năm hưởng 33,75%. Như vậy sẽ rất thiệt thòi. Sau khi tiếp thu góp ý của đại biểu Quốc hội, đánh giá kỹ tác động lẫn khả năng cân đối của Quỹ Hưu trí tử tuất, mức hưởng lương hưu được điều chỉnh lên 40%, tăng 6,25% so với đề xuất trước đó.

Để đạt mức hưởng 75%, nam giới cần đóng BHXH 35 năm, nữ giới chỉ cần cần đóng BHXH có 30 năm.

Mức hưởng lương hưu tối đa năm 2024

Hiện nay, mức hưởng lương hưu hàng tháng của người lao động được xác định theo công thức dưới đây:

Lương hưu hàng tháng = Tỷ lệ hưởng lương hưu (1) x Mức bình quân tiền lương/thu nhập tháng đóng BHXH (2)

Trong đó: Tỷ lệ hưởng lương hưu được xác định theo số năm đóng BHXH, tối đa là 75%.

Mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH (người tham gia BHXH bắt buộc) hoặc thu nhập tháng đóng BHXH (người tham gia BHXH tự nguyện) tùy thuộc vào tiền lương hoặc thu nhập đóng hàng tháng của người lao động, và nhân với hệ số trượt giá tương ứng.

Như vậy, mức hưởng lương hưu hàng tháng tối đa mà người lao động nhận được là 75% mức bình quân tiền lương/thu nhập tháng đóng BHXH sau khi đã điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng.

Người 75 tuổi sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí

Luật mới quy định chế độ trợ cấp hưu trí xã hội do ngân sách nhà nước bảo đảm trên cơ sở kế thừa và phát triển một phần từ quy định về trợ cấp xã hội hằng tháng đối với người cao tuổi.

Theo đó, người dân Việt Nam được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội khi từ đủ 75 tuổi trở lên và không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trừ trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.

Người dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và đáp ứng đủ điều kiện quy định thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội trên cơ sở đề nghị của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ.

Đóng BHXH bao nhiêu năm thì được hưởng mức lương hưu tối đa?

Để đạt được mức lương hưu tối đa như trên, người lao động cần đóng BHXH trong một khoảng thời gian xác định. Cụ thể, khoảng thời gian này có sự khác biệt giữa lao động nam và lao động nữ như sau:

(1) Đối với lao động nam: Người lao động nam nghỉ hưu từ ngày 01/1/2018 trở đi, tỷ lệ lương hưu hàng tháng được xác định bằng 45% tương ứng với số năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được cộng thêm 2%, tối đa bằng 75%.

Như vậy, người lao động nam cần đóng 35 năm BHXH mới được hưởng lương hưu tối đa (75%).

(2) Đối với lao động nữ: Người lao động nữ nghỉ hưu từ ngày 01/1/2018 trở đi, tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng tính bằng 45% tương ứng với 15 năm đóng BHXH. Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 2%, tối đa là 75%.

Như vậy, lao động nữ sẽ cần đóng 30 năm BHXH để được hưởng lương hưu tối đa (75%).

Tóm lại, nếu người lao động muốn được hưởng lương hưu tối đa sau khi đã đủ tuổi nghỉ hưu thì cần đóng BHXH ít nhất 30 năm đối với nữ và 35 năm đối với nam.

Như vậy, bài viết trên đây đã cung cấp thông tin đầy đủ về số năm đóng BHXH cần thiết để được hưởng lương hưu và các quy định liên quan. Bảo hiểm xã hội điện tử EBH hy vọng bài viết đã giúp quý độc giả trả lời thắc mắc: Đóng bảo hiểm xã hội bao nhiêu năm thì được hưởng lương hưu để có kế hoạch tham gia BHXH hợp lý, đảm bảo cuộc sống an nhàn sau khi nghỉ hưu. Mọi vấn đề liên quan còn thắc mắc, độc giả vui lòng liên hệ ngay với chúng tôi để được hỗ trợ.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Bộ trưởng LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung cùng người lao động hai nước tại Diễn đàn hợp tác lao động Việt Nam - Hàn Quốc tổ chức ở Thủ đô Seoul (Ảnh: Molisa).

Tối ưu hóa quyền lợi cho người lao động hai nước

Ông Phạm Trường Giang cho biết, ngày 14/12/2021, tại Seoul (Hàn Quốc), thay mặt Chính phủ Việt Nam, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung và Bộ trưởng Bộ Y tế và Phúc lợi xã hội Hàn Quốc Kwon Deok-cheol đã ký kết Hiệp định song phương về bảo hiểm xã hội.

Và vào ngày 24/4/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 60/NQ-CP về việc phê duyệt Hiệp định; ngày 25/4/2023, Thủ tướng ban hành Quyết định số 436/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định.

Đáng chú ý, vào ngày 8/12/2023, tại Seoul (Hàn Quốc), Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Bá Hoan và Thứ trưởng Bộ Y tế và Phúc lợi Hàn Quốc Kim Hyejin đã ký thỏa thuận hành chính việc triển khai Hiệp định về BHXH giữa Chính phủ hai nước có hiệu lực từ ngày 1/1/2024.

Thông tin về một số nội dung cơ bản của Hiệp định Việt Nam – Hàn Quốc về bảo hiểm xã hội và các quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội 2024 về đàm phán, ký kết các Hiệp định, Phó Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm xã hội Trần Hải Nam khẳng định, việc ký kết Hiệp định về Bảo hiểm xã hội là cần thiết để khắc phục vấn đề đóng song trùng, đồng thời hướng tới ghi nhận, tính cộng gộp thời gian tham gia Bảo hiểm xã hội ở cả Việt Nam và Hàn Quốc.

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 của Việt Nam có quy định: người lao động là công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc;

Và “người lao động là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của Chính phủ”.

Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 143/2018/NĐ-CP ngày 15/10/2018 của Chính phủ quy định: “Người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp và có HĐLĐ không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 01 năm trở lên với người sử dụng lao động tại Việt Nam.”

Bên cạnh đó, Luật Hưu trí quốc gia Hàn Quốc có quy định nguyên tắc “có đi có lại”: Người nước ngoài từ 18-60 tuổi, sinh sống và làm việc trong doanh nghiệp tại Hàn Quốc có thể tham gia vào Chương trình hưu trí quốc gia giống như người Hàn Quốc bản xứ.

Tuy nhiên, nếu luật pháp tại nước bản địa của người nước ngoài đó mà không cho phép người Hàn Quốc tham gia vào Chương trình hưu trí của nước mà người Hàn Quốc đến, làm việc thì người nước ngoài đó cũng không thể tham gia vào Chương trình hưu trí quốc gia của Hàn Quốc. Như vậy, với các quy định nêu trên thì người lao động Việt Nam và Hàn Quốc sẽ phải tham gia bảo hiểm xã hội ở cả Việt Nam và Hàn Quốc.

Việc ký kết Hiệp định về bảo hiểm xã hội là cần thiết để khắc phục vấn đề đóng song trùng, tối ưu hóa quyền lợi cho người lao động hai nước.

Lao động làm việc tại các nông trại ở Hàn Quốc (Ảnh minh họa: ITN).

Không chỉ người lao động mà doanh nghiệp và cả quốc gia đều hưởng lợi

Về quy định tránh đóng bảo hiểm xã hội hai lần, đối với lao động phái cử, tối ưu hóa quyền lợi cho người lao động hai nước của một Bên ký kết được cử đi làm việc ở Bên ký kết còn lại thì chỉ áp dụng pháp luật của Bên ký kết đầu tiên trong thời gian 60 tháng đầu và có thể kéo dài thêm không quá 36 tháng (Hết thời gian trên sẽ chỉ áp dụng pháp luật của nước người lao động đến làm việc).

Đối với lao động tuyển dụng tại chỗ, người lao động của một Bên ký kết đang tạm sinh sống và được tuyển dụng bởi người sử dụng lao động (NSDLĐ) ở Bên ký kết còn lại thì chỉ áp dụng pháp luật của Bên ký kết còn lại.

Riêng đối với người lao động là công dân Hàn Quốc được NSDLĐ tại Việt Nam tuyển dụng làm việc tại Việt Nam thì chỉ áp dụng pháp luật của Hàn Quốc trong thời gian không quá 60 tháng.

Về cộng gộp thời gian tham gia và tính hưởng bảo hiểm xã hội, Hiệp định quy định thời gian tham gia bảo hiểm xã hội để tính hưởng quyền lợi hưu trí là tổng các khoảng thời gian tham gia bảo hiểm xã hội đã được ghi nhận theo pháp luật của Việt Nam và Hàn Quốc, không bao gồm thời gian trùng (nếu có).

Việc tính hưởng chế độ bảo hiểm xã hội được thực hiện theo quy định pháp luật của mỗi Bên ký kết.

Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm Xã hội Phạm Trường Giang khẳng định, Chính phủ rất quan tâm đến việc đảm bảo quyền lợi cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, không chỉ là về tiền lương mà còn là quyền lợi hưu trí của họ, không chỉ thời gian làm việc ở trong nước mà cả thời gian làm việc ở nước ngoài.

Việc hợp tác song phương về BHXH như hiệp định này không chỉ mang lại quyền lợi cho người lao động mà doanh nghiệp và cả quốc gia đều hưởng lợi.

Cũng tại Hội nghị, các đại biểu được thông tin về quá trình nghiên cứu, chuẩn bị đàm phán Hiệp định về bảo hiểm xã hội giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản sắp tới.

Hiệp định về bảo hiểm xã hội giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hàn Quốc được xây dựng theo nội dung của một Hiệp định toàn diện với kết cấu gồm 5 Phần, 24 Điều.

Phạm vi áp dụng đối với Việt Nam là Luật Bảo hiểm xã hội (chỉ áp dụng với hai chế độ hưu trí và tử tuất), đối với Hàn Quốc là Luật Hưu trí quốc gia của Hàn Quốc.

Đối tượng áp dụng là người lao động là công dân Việt Nam, người lao động là công dân Hàn Quốc và thân nhân hoặc người thừa kế của những người này theo quy định của pháp luật mỗi nước.

Để ký kết Hiệp định Việt Nam - Hàn Quốc về BHXH, chúng ta mất 6 năm vì đây là hiệp định đầu tiên, chưa có nhiều kinh nghiệm. Vì vậy, trong thời gian tới khi triển khai với các nước khác thông qua các phiên họp kỹ thuật tìm hiểu kỹ lưỡng pháp luật về BHXH giữa hai nước trước khi đàm phán.

Và đặc biệt trên nền Luật BHXH số 41/2024/QH15 mới được Quốc hội thông qua thì thời gian đàm phán và ký kết sẽ ngắn hơn nhiều, hiệp định được áp dụng và có hiệu lực sớm hơn nhằm đáp ứng kịp thời mong mỏi của người lao động, người sử dụng lao động cả ở Việt Nam và ở nước đàm phán với Việt Nam.

Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua sáng 29-6, gồm 11 chương, 141 điều. Luật sẽ có hiệu lực từ ngày 1-7-2025, với nhiều điểm mới nổi bật.